Friday, February 28, 2014

Các Biệt Đoàn Độc Lập



Why Were PRU Teams Successful in Destroying the VC?

 
CIA and PRU

  Đơn vị PRU thành lập năm 1966 và chấm dứt vào năm 1972 thời kỳ MACV-SOG chấm dứt trong chiến tranh Việt Nam, có hơn 4,000 nhân viên PRU họat động trong chương trình gồm 4 vùng chiến thuật và do CIA tài trợ và trực tiếp điều hành.
Vùng 1 do Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ  Vùng 2 và vùng 3 do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ Vùng 4 do Lực Lượng Người Nhái Hoa Kỳ  Sau khi giải tán vào năm 1972 các đơn vị PRU cải tuyễn và sát nhập vào Trinh Sát của mổi Tiểu Khu và họat động cho đến 30 tháng 4 năm 1975.

While my experience in Tay Ninh does not necessarily represent the experience of other PRU advisers and their units, I can say confidently that the Tay Ninh PRU was successful during my tour. From September 1969 to June 1970, the Tay Ninh PRU killed 31 VCI and captured 64--at a cost of only two PRU members killed and two wounded. As early as December 1968, it was apparent to the Tay Ninh PRU that most of the senior VCI cadre had been either killed or captured in the months after Tet or had been driven into neighboring Cambodia. As a credible political threat, the VC had ceased to function in any meaningful way by the time I left Vietnam in June 1970.4 Further proof of the PRU's effectiveness came in 1975, when the communists finally defeated the South Vietnamese. The NVA commander occupying Tay Ninh Province would put in a hurried request to North Vietnam for 200 civilian political cadre. He reported that there were only six local VC cadre left in the province to manage the province's affairs. The Tay Ninh PRU was successful primarily because it was a locally recruited outfit whose members had an intimate knowledge of their province, its people, and the enemy. They also had discipline, strong leadership, and an intense personal motivation to defeat the VC. They had an accurate and highly effective intelligence system that was difficult for the enemy to infiltrate or defeat because it was based on strong family loyalties and religious and civic affiliations. The American commanders and advisers came and went and played important roles. But few served more than a year in any province. And as much as I (or I think any of my fellow PRU advisers) would like to find ways to take credit for the success of the PRU, I (and we) cannot. Long after the Americans left South Vietnam, the Tay Ninh PRU continued to root out the VCI. The concept may have been an American one, but the execution and adaptation were entirely Vietnamese. After the fall of Saigon in April 1975, the lives of Tay Ninh PRU members changed dramatically for the worse. They were hunted down and arrested or killed. Many served long terms in reeducation camps, where they were tortured and made to work under inhumane conditions. Some escaped the camps and made their way to the United States, where they were settled by the US government and given jobs. Most, however, were executed or died in squalid camps. A few never surrendered and continued to fight the Vietnamese communists and their southern allies. They organized a "stay behind" unit in Tay Ninh called the "Yellow Dragons," and their activities were still reported on by the communist authorities in the province well into the 1990s.


Bài viết dưới đây của cá nhân chúng tôi dựa vào một ít tài liệu cho các thân hữu Úc chuyển cho. Chúng tôi tin rằng nó khá chính xác nhưng chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Hơn nữa, trong thời gian phục vụ trong quân đội, chúng tôi không hề phối hợp với các đơn vị PRU và do đó, xin thứ lỗi nếu có sai sót, và xin tự nhiên bổ khuyết.
Hai tấm hình chụp các chiến sĩ PRU với một đại uý cố vấn Úc (Xin mở attachments).
Trong bài này, chúng tôi gửi đến quí vị một bài về những đơn vị hoạt động rất âm thầm của quân đội chúng ta trước đây. Mãi cho đến nay, rất nhiều người trong chúng ta chưa biết rõ về những đơn vị này và thậm chí một số khác còn không biết rằng có sự hiện hữu của họ. Đó là những Đơn Vị Thám Sát Tỉnh mà tiếng Anh gọi là The Provincial Reconnaissance Units. Khi viết về những người hùng thầm lặng này, chúng tôi đã phải đắn đo rất nhiều và cuối cùng quyết định chỉ nêu ra một số sự kiện tổng quát. Chúng tôi đã tìm hiểu và biết chắc rằng những nhân vật mà chúng tôi nêu danh tánh hay đưa hình ảnh lên trang mạng này hoặc là đã qua đời hoặc là không còn sinh sống tại Việt Nam. Bởi vì, mặc dù đã chiếm trọn được miền Nam Việt Nam 37 năm nay, Việt Cộng chắc chắn sẽ bằng cách này hay cách khác trả thù những người đã góp phần chính yếu làm tiêu tan hạ tầng cơ sở của chúng khiến chúng khốn đốn một thời gian dài trước đây.
Từ đầu năm 1967, Việt Nam Cộng Hoà ghi nhận được Việt Cộng hoàn thành các cơ sở hạ tầng của chúng trong ba quận Hương Thuỷ, Phú Vang và Phú Tứ thuộc Tỉnh Thừa Thiên. Trong năm đó, quân đội tung ra ba cuộc hành quân nhưng không đem lại kết quả mong muốn. Trong số thương vong, có Thiếu Tá Peter Badcoe thuộc Quân Đội Hoàng Gia Úc và ông này sau đó được truy thăng Victoria Cross. Trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, riêng tại Phú Thứ đã có hơn ba ngàn thường dân bị Việt Cộng tàn sát, trong đó có một số lớn bị chôn sống.
Vào cuối tháng Chín 1968, một cuộc hành quân hỗn hợp qui mô có tên là Phú Vang 1 được tung ra vào ba quận này. Lực lượng tấn công gồm có Trung Đoàn 54 Bộ Binh Việt Nam, Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Thừa Thiên, Lực Lượng Cảnh Sát Đặc Biệt, các đơn vị Địa Phương Quân của ba quận và đi theo lực lượng tấn công này là các cán bộ kiểm tra dân số.
Yểm trợ cho các lực lượng của Việt Nam Cộng Hoà là một lữ đoàn của Sư Đoàn 101 Nhảy Dù Hoa Kỳ và một chi đoàn kỵ binh Hoa Kỳ. Ngoài ra, vì hệ thống sông ngòi chằng chịt của khu vực hành quân, một Giang Đoàn Xung Kích của Việt Nam Cộng Hoà ứng chiến để truy kích Việt Cộng trong trường hợp chúng tẩu thoát bằng đường sông. Ngoài biển, các tiểu đĩnh của Hải Quân Hoa Kỳ cũng sẵn sàng tác chiến.
Sau 12 ngày hành quân lục soát và tấn công, có 96 tên Việt Cộng bị bắn chết tại chỗ cùng với 168 tên bị bắt sống (xin xem chú thích 1). Trong số này, có 1 cán bộ chính qui Bắc Việt, 20 tên thuộc chủ lực miền, 54 tên du kích và 93 tên thuộc cơ sở hạ tầng địa phương. Chúng ta tịch thu được 155 vũ khí cá nhân và 8 vũ khí cộng đồng. Bên bạn, thiệt hại nhỏ đến mức không ngờ: một chiến sĩ bộ binh Việt Nam Cộng Hoà hy sinh. Có 10 quân nhân Việt Nam Cộng Hoà và 9 quân nhân Hoa Kỳ bị thương nặng nhẹ. Các cố vấn Hoa Kỳ và Úc, trong báo cáo của họ, đã hết lời ca ngợi các đơn vị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và Cảnh Sát Quốc Gia đã rất xuất sắc trong việc hành quân lục soát làng mạc có Việt Cộng ẩn náu. Tuy nhiên, còn một điều nữa rất đáng ghi nhận là việc chúng ta tấn công vào đúng nơi và bắt giữ đúng người phần lớn nhờ vào tin tức tình báo của Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Thừa Thiên. Đây là một thành quả quá mức mong đợi, nếu chúng ta hiểu được rằng trong một vùng mà Việt Cộng kiểm soát ban đêm như vậy, ít người dân nào dám cung cấp tin tức cho các lực lượng của quốc gia vì sợ cộng quân đê hèn trả thù như chúng vẫn thường làm.

Cho đến nay, rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn tin rằng Đơn Vị Thám Sát Tỉnh là một đơn vị của Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ, giống như Biệt Kích Mỹ. Chúng tôi đã tra cứu rất nhiều tài liệu và tham khảo với nhiều cựu sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và các cựu cố vấn Úc tại Việt Nam trước đây thì thấy rằng sự thật không phải như vậy.
Vào giữa thập niên 1965, lực lượng Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn được thành lập với mục đích chính là củng cố ảnh hưởng của chính quyền quốc gia đối với dân chúng tại vùng nông thôn. Sau đó, khi Việt Cộng gia tăng nỗ lực để phát triển hạ tầng cơ sở của chúng tại các vùng nông thôn thì chúng ta thấy cần phải có một lực lượng thứ hai hoạt động song song với lực lượng Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn nhưng thi hành một nhiệm vụ khác hẳn. Đó là tấn công trực tiếp vào hạ tầng cơ sở Việt Cộng. Dưới sự bảo trợ của CIA, Đơn Vị Thám Sát Tỉnh (xin xem chú thích 2) (Provincial Reconnaissance Units) được thành lập vào đầu năm 1966. Tuy được xem là một đơn vị nặng về quân báo nhưng Đơn Vị Trinh Sát Tỉnh có nhiều nhiệm vụ khác nhau và nhiệm vụ nào cũng rất quan trọng.
Thứ nhất, đương nhiên là họ có nhiệm vụ thâu thập tin tức tình báo về hạ tầng cơ sở Việt Cộng, đúng như danh xưng. Thứ hai, họ có nhiệm vụ tung ra các cuộc hành quân diệt địch. Thứ ba, họ có nhiệm vụ làm giảm đi tiềm năng của hạ tầng cơ sở Việt Cộng bằng cách thi hành chính sách Chiêu Hồi kêu gọi cán binh Việt Cộng từ bỏ hàng ngũ để trở về với chính nghĩa quốc gia. Thứ tư, họ cô lập hoá Việt Cộng bằng cách thực hiện các công tác phản tuyên truyền để kéo dân trở về với chính phủ.
Về tổ chức, một đơn vị căn bản của họ có 18 người và chia làm ba toán mỗi toán có sáu người. Trong nhiều trường hợp, có tới tám đơn vị phối hợp với nhau trong một công tác qui mô với tổng số nhân sự lên đến 146 người. Về mặt hành chánh quản trị, Đơn Vị Trinh Sát Tỉnh thuộc quyền điều động của Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng. Tuy nhiên, khi hoạt động, họ được cố vấn và giám sát của nhân viên CIA. Thông thường thì tại mỗi tỉnh có một nhân viên CIA đặc trách về lực lượng này.
Về huấn luyện, các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh được huấn luyện căn bản tại Vũng Tàu, giống như các Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn. Trong thời gian tại đây, họ được huấn luyện về chiến tranh đặc biệt nhiều hơn là chiến thuật như các tân binh hay khoá sinh của lục quân. Sau khi ra trường, họ còn được huấn luyện bổ túc tại chỗ để có thể ứng phó với tình hình và địa thế trong phạm vi hoạt động của họ.
Đến đây, chúng tôi cũng xin nói thêm rằng cùng với việc thành lập Đơn Vị Thám Sát Tỉnh, một tổ chức khác cũng được khai sinh để hoạt động song song với họ có một cái tên rất hiền lành là Biệt Chính Nhân Dân. Nhân viên của tổ chức này gồm có các viên chức chính phủ và họ có ba nhiệm vụ riêng biệt. Thứ nhất, họ có nhiệm vụ kiểm tra dân số tại các vùng nông thôn. Thứ hai, họ có nhiệm vụ theo dõi việc bồi thường thiệt hại cho dân chúng do chiến tranh gây ra. Trong khi thi hành nhiệm vụ này, họ cũng tiếp nhận những khiếu nại của dân chúng liên quan đến việc bồi thường của chính phủ hoặc việc thanh toán không sòng phẳng giữa các hợp tác xã nông thôn với nhau. Thứ ba và quan trọng hơn cả, họ có một nhiệm vụ tối mật là thâu thập bất cứ tin tức nào có thể đưa đến việc nhận diện bọn Việt Cộng nằm vùng hoặc những kẻ làm tay sai cho chúng hoặc có cảm tình với chúng. Như vậy, Đơn Vị Thám Sát Tỉnh hoạt động hữu hiệu cũng một phần nhờ có Biệt Chính Nhân Dân. Ngoài ra, chính hồ sơ do Biệt Chính Nhân Dân cung cấp về dân số trong làng, mỗi nhà có bao nhiêu người, bao nhiêu người lớn và trẻ em, bao nhiêu nam và bao nhiêu nữ cùng với tuổi tác đã giúp cho các lực lượng Đồng Minh được dễ dàng trong các cuộc hành quân lục soát. Tuy chỉ có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo nhưng không phải là các cán bộ của Biệt Chính Nhân Dân không biết tác chiến.
Có một lần vào cuối năm 1966, một toán Biệt Chính Nhân Dân của Tỉnh Phước Tuy được biết tổ ám sát của Việt Cộng sẽ có một phiên họp quan trọng trong một căn nhà gần chợ Đất Đỏ. Trưởng toán liền đến gặp Đại Uý Jack Leggett là cố vấn Úc đặc trách về hạ tầng cơ sở Việt Cộng tại Tỉnh Phước Tuy thì chẳng may ngay đêm hôm sau ông phải đi theo Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Phước Tuy (lúc đó chưa có bao nhiêu người) trong một cuộc hành quân phục kích rất quan trọng. Vì vậy nên toán Biệt Chính Nhân Dân phải hành động đơn độc nhưng được Đại Uý Leggett cung cấp súng ống và lựu đạn đầy đủ.
Tối hôm sau, toán Biệt Chính Nhân Dân dưới sự hướng dẫn của trưởng toán vốn là một cựu cảnh sát viên, đến bao vây căn nhà. Vì tổ ám sát của Việt Cộng không biết gì nên chúng bắt đầu phiên họp đúng theo giờ ấn định. Mấy phút sau, toán Biệt Chính Nhân Dân xiết chặt vòng vây nhưng đúng lúc đó, một toán viên có lẽ lầm tưởng rằng bọn Việt Cộng trong nhà đã biết được nên vội vàng tung một trái lựu đạn vào nhà qua cửa sổ. Ngay sau đó, cả toán nổ súng như mưa trước khi xông vào lục soát. Cả tổ ám sát chỉ còn tên tổ phó sống sót. Tổ trưởng chính là con trai của bà chủ nhà, chết tại chỗ cùng bà mẹ. Nhưng bên ta còn tịch thu được rất nhiều tài liệu quan trọng.
Tại Trung Tâm Điều Hợp Hành Quân, tên tổ phó khai rằng theo đúng kế hoạch, tổ của y ta sẽ cho nổ tung một câu lạc bộ của quân đội Mỹ tại phi trường Vũng Tàu vào ngày hôm sau. Xem lại tài liệu bắt được tại căn nhà nơi có buổi họp, các nhân viên điều tra thấy đúng như vậy và ngoài ra, còn có một danh sách rất đầy đủ các tên đặc công Việt Cộng có mặt tại thị xã Vũng Tàu chờ lệnh ra tay. Nhưng chúng chưa được lệnh gì thì bên ta ra tay trước.
Căn cứ vào danh sách trong tài liệu tịch thu được, lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt bất thần hành quân và tóm cổ được sáu mươi tư tên đặc công tại thị xã Vũng Tàu chỉ trong một buổi tối. 
Trở lại với Đơn Vị Thám Sát Tỉnh thì, vì được huấn luyện để hoạt động giữa lòng đất địch nên họ hoàn thành nhiệm vụ một cách dễ dàng và thoải mái, giống như một đơn vị đi tuần giữa một vùng thôn quê thanh bình.
Xã Ngãi Giao nằm dọc theo Quốc Lộ 2 trong Tỉnh Phước Tuy được xem là một vùng theo Việt Cộng. Vì vậy mà các toán thuộc Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Phước Tuy xuất hiện tại đây rất thường xuyên. Trong những chuyến công tác như vậy, họ ăn mặc như Việt Cộng và vừa đeo súng của Mỹ vừa đeo súng của Khối Cộng, giống như các cán binh Việt Cộng thật. Có một lần một toán giả dạng Việt Cộng xâm nhập vào vùng này với mục đích tìm hiểu thêm về sinh hoạt của địch. Theo đúng chương trình, toán này tìm đến một trạm giao liên thì không ngờ có một trung đội Việt Cộng thật cũng đang ở đó. Hai bên đối thoại một lúc rồi toán của ta bỏ đi để đến điểm hẹn với trực thăng đến đón. Mãi đến khi nghe thấy tiếng máy bay trực thăng, toán Việt Cộng thật mới sinh nghi và cầm súng chạy đến để bắn nhau với những người mà trước đó chỉ vài phút chúng tưởng là đồng chí.
Một cách khác nữa để các toán trong Đơn Vị Thám Sát Tỉnh thu thập tin tức tình báo là giả dạng nhân viên kinh tài Việt Cộng. Thông thường, họ dùng những cuốn biên lai thu thuế tịch thu được của Việt Cộng rồi vào rừng tìm dân khai thác gỗ mà thu tiền, thường là 100 đồng Việt Nam mỗi người vào năm 1967. Nhờ vậy, họ dễ dàng thu thập thêm tin tức về tình hình địch cũng như địa bàn hoạt động của chúng.
Chính những thành công vượt bực mà Biệt Chính Nhân Dân cùng với các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh đem lại đã khiến chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, với sự hậu thuẫn của CIA, đánh mạnh hơn nữa vào hạ tầng cơ sở của Việt Cộng đưa đến việc khai sinh Chiến Dịch Phượng Hoàng vào năm 1967.
Sau một thời gian thử nghiệm thành công, cả Chiến Dịch Phượng Hoàng lẫn các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh được chính thức hoá qua Nghị Định 044 –SL/NV có nội dung như sau.
Điều Một: Nghị định này chính thức thành lập các đơn vị đặc biệt cấp tỉnh có tên là Đơn Vị Thám Sát Tỉnh.
Điều Hai: Các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh có nhiệm vụ:
1.         Thu thập những tin tình báo liên quan đến hạ tầng cơ sở của Việt Cộng.
2.         Thực hiện các cuộc hành quân diện địa và các dự án đặc biệt, nhằm tiêu diệt hạ tầng cơ sở Việt Cộng.
3.         Tham gia các cuộc hành quân hỗn hợp do các Trung Tâm Phượng Hoàng cùng Trung Tâm Phối Hợp Tình Báo Hành Quân cấp Tỉnh, Quận tổ chức.
4.         Tiếp tay với các lực lượng Việt Nam Cộng Hoà và Đồng Minh trong các cuộc hành quân trinh sát, các sứ mạng tình báo và xác định vị trí của địch.
Điều Ba: Các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh được đặt dưới quyền điều động trực tiếp của Tỉnh Trưởng.
Việc quản trị hành chánh các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh sẽ thuộc thẩm quyền của Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia.
Điều Bốn: Việc tổ chức, phân công đặc biệt và huấn lệnh điều hành của Các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh sẽ được quyết định liên đới bởi Tổng Trưởng Nội Vụ và Tổng Trưởng Quốc Phòng.
Điều Năm: Tất cả các điều khoản trước đây trái ngược với Nghị Định này đương nhiên được huỷ bỏ.
Điều Sáu: Phó Thủ Tướng Đặc Trách Bình Định và Phát Triển Nông Thôn Kiêm Tổng Trưởng Nội Vụ, Tổng Trưởng Quốc Phòng và Đổng Lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng chiếu nhiệm vụ thi hành Nghị Định này.
Sàigòn, ngày 31 tháng Ba năm 1969
Thủ Tướng Chính Phủ
Trần Văn Hương (ấn ký)
Qua nghị định này, chúng ta thấy rằng quyền điều động các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh đã được chuyển từ Bộ Tổng Tham Mưu sang Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Điều này gián tiếp xác nhận rằng kể từ đó, các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh được xem như một lực lượng bán quân sự.
Trong phần còn lại của bài tuần này, chúng ta thử nhìn lại những thành quả của Chiến Dịch Phượng Hoàng nói chung và các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh nói chung.
Trong năm 1968, có 11 ngàn 288 tên Việt Cộng bị bắt, 2 ngàn 229 tên hồi chánh và 2 ngàn 559 tên bị bắn hạ.
Trong năm 1969, chúng ta bắt được 8 ngàn 515 tên, chiêu hồi 4 ngàn 832 tên, bắn hạ 6 ngàn 187 tên.
Trong năm 1970, chúng ta bắt được 6 ngàn 405 tên, chiêu hồi 7 ngàn 745 tên và bắn hạ 8 ngàn 191 tên.
Từ đầu năm 1971 đến tháng Năm, chúng ta bắt được 2 ngàn 770 tên, chiêu hồi 2 ngàn 911 và bắn hạ 3 ngàn 650.
Về việc Chiến Dịch Phượng Hoàng bị đình chỉ, chúng ta cũng nên nhìn qua một cách tổng quát.
Việc giới truyền thông tây phương xuyên tạc về chiến dịch này là một điều dễ hiểu vì đó là truyền thống hoặc chủ trương của họ. Tuy nhiên, tại sao Quốc Hội Hoa Kỳ đi đến quyết định đòi hỏi phải ngưng lại chiến dịch này mới là điều chúng ta cần biết. Sau khi đã nghiên cứu một số tài liệu và công văn, chúng tôi nhận thấy Paul Elliot nói một cách khá trung thực trong cuốn Vietnam: Conflict and Controversy xuất bản tại Anh vào năm 1996.
Theo Elliot, Chiến Dịch Phượng Hoàng chỉ nhắm vào thành phần cán bộ Việt Cộng chứ không nhắm vào những tên du kích cắc ké. Tuy nhiên, để tóm cổ được những tên này chúng ta không phải chỉ trông cậy vào tin tức của các mật báo viên mà nhiều khi còn nhờ vào lời khai của những tên cấp dưới. Vì vậy, tất cả những phần tử Việt Cộng hay cộng tác với chúng như kinh tài thu thuế sau khi bị bắt đều bị đưa về một trong 80 văn phòng của Chiến Dịch Phượng Hoàng. Tại đây, những tên này sẽ bị thẩm vấn và nếu chúng quá khích, có thể bị trao cho anh em người Nùng vốn chống cộng thẳng tay. Đã có những trường hợp Việt Cộng bị chết trong khi nằm trong tay anh em người Nùng. Tuy nhiên, vẫn theo Elliot, đã có những nhân chứng đã trân tráo vu cáo Việt Nam Cộng Hoà một cách trắng trợn trước Uỷ ban Điều Tra của Thượng Viện Hoa Kỳ mà người ta vẫn tin, hoặc mượn cớ đó để làm khó dễ Việt Nam Cộng Hoà. Elliot kể một trường hợp điển hình là có một cựu nhân viên (?) của Chiến Dịch Phượng Hoàng khai rằng không một người nào bị bắt vì bị tình nghi là Việt Cộng mà sống sót mà lại không có bất cứ bằng chứng nào rằng họ là Việt Cộng. Kế tiếp, Elliot mỉa mai rằng nếu đúng như vậy thì tại sao sau năm 1975, Ngoại Trưởng Nguyễn Cơ Thạch của Hà Nội lại tuyên bố rằng Chiến Dịch Phượng Hoàng đã tiêu hủy biết bao nhiêu căn cứ của Việt Cộng. Elliot lại thêm rằng Thạch không dám nhắc đến việc các toán ám sát khủng bố của Việt Cộng đã giết hại mấy chục ngàn người phần lớn là nhân viên xã ấp và giáo viên trong suốt hai thập niên trước đó. Cuối cùng, Elliot kết luận một cách khá hợp lý rằng trong trường hợp một đơn vị quốc gia bắn nhau với một toán Việt Cộng ẩn náu trong một căn nhà thì nếu không một ai, kể cả thường dân, trong căn nhà đó còn sống sót là một điều thường tình khó tránh khỏi. Do đó, có thể nói rằng có vào khoảng 30 ngàn người bị bắt hoặc bị bắn chết trong Chiến Dịch Phượng Hoàng mà không phải tất cả 30 ngàn người này đều là Việt Cộng.
Ở một đoạn khác, Elliot thuật lại rằng khi Chiến Dịch Phượng Hoàng đã được chính thức hoá, Trùm CIA tại Việt Nam lúc đó là William Colby đã chính thức cấm chỉ việc thủ tiêu các tên Việt Cộng bị bắt, với bất cứ lý do gì và trong bất cứ hoàn cảnh nào. Elliot nói tiếp rằng bản báo cáo nói rằng đại đa số những tên bị chết là vì giao tranh với lực lượng hành quân là một bản báo cáo đáng tin cậy, nhưng lại có một số người không mấy tin tưởng. Theo Elliot, chính vì vậy mà Thượng Viện Hoa Kỳ áp lực chính phủ phải ngưng ngay Chiến Dịch Phượng Hoàng, nếu muốn họ thông qua ngân sách.
Đến đây, chúng ta trở lại với những thành quả điển hình của các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh. Trong bản báo cáo mật mà chúng tôi trình ra đây, nếu dịch sang Việt ngữ thì có nội dung như sau:
Báo cáo tin tức tình báo số 0211 lúc 8 giờ 30 tối ngày 22 tháng Chín 1969
Đề mục: Vị trí của đặc công Việt Cộng tại Thị xã Qui Nhơn
Lượng giá: F-3
Tường trình: 15 tên đặc công Việt Cộng, mặc quần xám và áo sơ-mi trắng có đem theo chất nổ, đang ẩn náu tại mấy căn nhà gần thiết lộ hoả xa cạnh Đường Gia Long, phía nam Đường Đống Đa trong Thị xã Qui Nhơn. Những căn nhà này nằm gần Khách sạn Việt Cường và một bến xe đò. Những tên đặc công này là con trai tuổi từ 15 đến 18. Chúng có giấy tờ hợp lệ và đến Qui Nhơn vào ngày 20 tháng Chín 1969. Chúng đến từ Quận Phù Cát theo lệnh của những tên cán bộ trong Uỷ ban Huyện Phù Cát của Việt Cộng. Chúng dự định ném thuốc nổ vào những quân nhân trên quân xa và những đám đông quân nhân đứng dọc theo các con đường. Cũng có thể chúng sẽ âm mưu ám sát các viên chức tỉnh.
Giữ cẩn thận báo cáo này hoặc tiêu huỷ.
Bản báo cáo này do Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Bình Định gửi đến Trung Tâm Phối Hợp Tình Báo Hành Quân yêu cầu ra tay. Nội dung bản báo cáo cho chúng ta thấy các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh giữ một vai trò rất quan trọng trong việc gìn giữ an ninh tại hậu phương và họ thu thập tin tức tình báo rất chính xác và khá nhanh. Một trong những người đầu tiên đọc bản báo cáo trên là Chuẩn Uý Ossie Ostara thuộc Huấn Luyện Đoàn Lục Quân Úc Đại Lợi tại Việt Nam. Ostara đã ba lần sang phục vụ tại Việt Nam, nói tiếng Việt rất thông thạo và được các chiến sĩ Việt Nam hết mực quí mến.
Ostara sang phục vụ tại Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1964 và làm cố vấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Đống Đa. Sang năm sau, ông về Vũng Tàu phụ trách việc huấn luyện về công tác dân vụ cho cán bộ Bình Định và Phát Triển Nông Thôn đầu tiên. Đến năm 1967, ông ra cố vấn cho Tỉnh Thừa Thiên và sau biến cố Tết Mậu Thân lại vào cố vấn cho Tỉnh Lâm Đồng rồi năm 1969 lại ra cố vấn cho Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Bình Định. Lúc đó, đơn vị này có ba toán và mỗi toán 18 người. Chính trong thời gian phục vụ tại đây mà Chuẩn Uý Ostara hiểu rõ hơn hết về đơn vị này.
 
Trong cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên của Bảo tàng viện Chiến Tranh Úc vào tháng Hai 1976, Ostara tiết lộ rằng việc Việt Cộng không thể hoạt động mạnh như trước năm 1969 tại Bình Đình một phần nhờ vào các cuộc hành quân của các đơn vị Đại Hàn và một phần nhờ vào Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Bình Định. Đơn vị này có rất nhiều thành viên vốn là hồi chánh viên mà trong đó có tới bảy người là cán binh Cộng Sản Bắc Việt. Lúc đầu, Ostara cũng lo ngại cho sự hoà thuận giữa các chiến binh Việt Nam Cộng Hoà và những người một thời là kẻ thủ. Tuy nhiên, trong suốt hai năm làm cố vấn cho đơn vị, Ostara chỉ có ba điều để nói về những hồi chánh viên này. Thứ nhất, họ trở về với chính nghĩa quốc gia và trung thành tuyệt đối. Thứ hai, họ là những quân nhân có sức chịu đựng khá, đáng tin cậy và biết tuân thượng lệnh. Thứ ba, sự hiểu biết của họ về Việt Cộng đã giúp cho các đơn vị quốc gia rất nhiều trong việc hoàn thành sứ mạng, nhất là phá vỡ hạ tầng cơ sở của Việt Cộng. Nhân tiện, Ostara cũng kể lại một cuộc hành quân của Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Bình Định.
Đêm 7 rạng ngày 8 tháng Chín 1969, có hai tên du kích lẻn đi thu lương thực từ dân chúng trong một ấp nhỏ thuộc Quận Phù Cát. Chỉ đến sáng sớm thì các chiến sĩ tại tỉnh lỵ nhận được tin này và họ lập tức kéo đến đó bằng quân xa rồi đổ xuống ngay bìa ấp cạnh đường. Khi những chiến sĩ đi đầu tiến vào gần đến khu dân cư, một thanh niên mặc áo trắng quần đùi đen từ một bụi cây đứng dậy và ném ra một trái lựu đạn. Thấy vậy, các chiến sĩ vội nằm xuống và lợi dụng tình thế, hai tên du kích chạy như bay từ bụi cây vào một trong những căn nhà trong ấp. Ngay sau khi trái lựu đạn nổ, một số chiến sĩ của đơn vị hành quân bắn che có các chiến sĩ đi đầu xông vào bao vây các căn nhà. Từ một trong những căn nhà này, hai trái lựu đạn nữa được tung ra nhưng không gây một thiệt hại nào đồng thời nơi ẩn núp của hai tên du kích đã bị lộ. Vòng vây xiết chặt nhanh chóng và cả hai tên bị bắt sống.
Không tự mãn với kết quả này, các chiến sĩ tiếp tục lục soát rất kỹ cả khu vực và cuối cùng thấy có hai sợi dây điện nối với một cục pile. Lần theo sợi dây điện dài 150 thước, các chiến sĩ thấy có một đầu đạn đại bác 105 ly chôn dưới mặt đường. Trong cuộc thẩm vấn tại chỗ, hai tên du kích khai rằng chúng chờ cho đoàn quân xa của Đại Hàn đi qua thì cho nổ đầu đạn này. Chúng cũng khai rằng nơi ẩn náu của chúng nằm sâu trong rừng cách đó khoảng 1 ngàn 500 thước. Sau đó, đơn vị hành quân để vài chiến sĩ ở lại ấp để canh chừng tên Việt Cộng thứ nhất và tất cả các chiến sĩ còn lại cùng với tên Việt Cộng thứ hai dẫn đường tiến vào rừng. Khi vào đến giữa một khu rừng tre, Việt Cộng bắn ra trước nhưng không trúng ai và sau đó chúng lại ném ra hai trái lựu đạn và cũng không gây thiệt hại. Các chiến sĩ ta kêu gọi chúng đầu hàng nhưng chỉ có mấy loạt đạn đáp lời. Giữa lúc đó, một chiến sĩ bò vòng sang bên hông và cuối cùng tìm thấy một lỗ thông hơi chạy xuống hầm trú ẩn của Việt Cộng. Hai trái lựu đạn được thả xuống và cuộc lục soát sau đó cho thấy không một tên nào dưới hầm sống sót.
Theo lời Chuẩn Uý Ostara, trung bình mỗi tháng các chiến sĩ thuộc Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Bình Định bắt được ba chục tên Việt Cộng và bắn hạ gần mười tên. Rất hiếm khi có các bộ cao cấp của Việt Cộng nằm trong số này nhưng lại có khá nhiều cán bộ cao cấp ra hồi chánh.
Đương nhiên là Việt Cộng không chịu ngồi yên để bị các chiến sĩ của Đơn Vị Thám Sát Tỉnh tiêu diệt dần dần. Tuy nhiên, chúng chỉ có một cách duy nhất là nhận diện và ám sát các chiến sĩ thuộc các đơn vị này. Điều cay đắng cho chúng là trong khi tìm cách nhận diện và ám sát chiến sĩ quốc gia, chính những tên đặc công khủng bố lại bị bắn hạ hoặc bắt sống trước khi kịp hành động. Tuy vậy, theo Chuẩn Uý Ostara, ông và tất cả các chiến sĩ của đơn vị rất ít khi ra phố chơi nhất là không bao giờ đến những quán nhậu hay quán cà-phê. Họ chỉ chơi với nhau và luôn luôn mặc thường phục. Phải cẩn thận hơn cả là những chiến sĩ vốn là hồi chánh viên. Lý do là Việt Cộng biết mặt họ và rất căm hận họ. Những người từ bỏ hàng ngũ Việt Cộng trở về với chính nghĩa quốc gia và đem những gì mình biết về Việt Cộng để giúp chúng ta sớm chấm dứt chiến tranh, đôi khi đã phải trả một giá rất đắt.
Chú thích
(1) Theo báo cáo chính thức (After Action Report) ngày 12 tháng Mười 1968 của Quân Đội Hoa Kỳ. Phó bản hiện được lưu trữ trong Văn khố Quân Đội Hoàng Gia Úc Đại Lợi.
(2) Tại nhiều tỉnh, đơn vị này dùng danh xưng Lực Lượng Trinh Sát Tỉnh, nhưng danh xưng chính thức trên văn thư vẫn là Lực Lượng Thám Sát Tỉnh.

Sunday, February 16, 2014

Cuối Đường Di Tản: SÀI GÒN.

Tram Nguyen

Shared publicly  -  9:41 PM
 
CUỐI ĐƯỜNG

"Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.
Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!"...
(Vương Mộng Long)

Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của Quốc Lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, Quốc Lộ 1 sẽ chấm dứt.

Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên Đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu Đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư Đoàn 18 BB/HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:

- "Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!"

Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để "phòng thủ thủ đô". Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên Quốc Lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ.

Vào giờ này, quân số Tiểu Đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân Khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu Tá Vương Mộng Long), Thiếu Úy Thủy, Trung Úy Trâm, Chuẩn Úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại Úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu Đoàn Phó chết đêm 28 tháng Tư. Chuẩn Úy Nguyễn Hữu Phước và Trung Úy Đăng mất tích. Thiếu Úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu Úy Học, Thiếu Úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn Úy Gấm, Chuẩn Úy Trung, Chuẩn Úy Lê Văn Phước (Ban 3) cùng Trung Úy Trần Văn Phước thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua.

Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi. Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hòa này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội.

Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên-Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân.

Trước mắt chúng tôi là Quốc Lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.

Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau.

Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương Văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương Văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là "những người anh em" Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi,

- "Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?"

- "Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?"

Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt,

- "Thiếu Tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu Tá ơi! Hu... hu... hu..."

Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...

Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này.

Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động.

Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương Văn Minh lên chức tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông tổng thống này là thiệt hay giả?

Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng Thống Việt-Nam Cộng-Hòa được nhỉ?
Sao một thường dân có thể lên làm tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quyệt nước mắt.

Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân thùng! thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền-Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,

- "Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!"

- "Hoan hô!... Hoan hô!"

Thùng!... Thùng!... Hoan hô!... Hoan hô!... Thùng!... Thùng!... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió; lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.

- "Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?"

Chửi thề xong, ông Hạ Sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.

- "Thôi! Ta đi!" Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.

- "Mình đi đâu bây giờ, Thiếu Tá?" Thiếu Úy Thủy băn khoăn hỏi.

- "Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ."

Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.

- "Thùng!... Thùng!...Hoan hô!...Hoan hô!", chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.

- "Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!" Hạ Sĩ Phi lại đổ quạu.

- "Cành! Cành! Cành!... Cành!... Cành! Cành!" Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa! Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết.

Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi,

- "Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!"

Tôi nghe tiếng Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng LĐ24/BĐQ,

- "Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!"

Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.

Nghe ba tiếng "Đường-Sơn Quán", tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ Chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sé San là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương Bắc.

Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim Hồng-Kông. Họ quen gọi tôi là "Anh Hai". Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng "Anh Hai" của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, "Anh Hai" lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn II giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim "Đường-Sơn Đại-Huynh" được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh "Đường-Sơn Đại-Huynh" chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý Tiểu Long, tài tử chính của phim này.

Sau khi "Anh Hai" vào Plei-Me nhận Tiểu Đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái "Đường-Sơn" khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía. Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,

- "Có phải Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?"

- "Phải rồi! 82 đây!"

- "Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!"

- "Có ai ở đó không?"

- "Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng."

Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung Úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,

- "Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!"

Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho "hòa bình" có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ Sĩ Phi, một của Trung Sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.

Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la:

- "Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!"

Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống. "Hòa bình" rồi, tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?

- "Choác! Choác!.... Choác!"

Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun "phì... phì..." che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,

- "Đưa tao!"

Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích.

Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be.

- "Oành!"

Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu; máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ.

Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên.

Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.

Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu.

Hạ Sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá,

- "Cành! Cành!..."

- "Choác! Choác!..."

- "Xoẹt! Xoẹt!..."

- "Oành! Oành!..." Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.

- "Cành! Cành! Cành!..." Trên xe, Hạ Sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,

- "Đù má tụi mi! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!"

Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của Quốc Lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến.

Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, Vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh Nhứt Liêu Chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).

Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng Trung Úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,

- "Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !"

- "Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!"

Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ "đúp" (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ Sĩ Phi vỡ óc. Hạ Sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng.

Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút chạy vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.

Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung Sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung Sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,

- "Chạy đi!... Ông thày... chạy đi!..."

Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ "toang toác!" trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.

- "Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!" đó là tiếng Trung Úy Trâm.

- "Toác!Toác!"

- "Chíu! Chíu!"

Đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất.

Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban-Mê-Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú,

- "Ôi!... Ôi!... Ông Trời ơi!... Ông Trời ơi!... ơi... ơi..."

Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung Úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.

- "Trâm ơi! Làm ơn!... Cho anh chết! Trâm ơi!..."

Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung Úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường:

- "Ông Thiếu Tá bị thương hả?"

Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,

- "Ông Trung Úy lấy xe này đưa Thiếu Tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!"

- "Cám ơn cụ!"

Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.

Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,

- "Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?"

Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, "Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!"

Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn:

- "Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi!"

Trung Úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau. "Hu ... hu... hu...."

Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.

Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng Quốc Lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ,

- "Thiếu Tá lên xe, em chở đi trốn."

Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.

- "Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông Thiếu Tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác Thiếu Tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa Thiếu Tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt."

Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa.

- "Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!"

Cánh cửa hé mở, một bà già, tiếng Bắc Di-Cư,

- "Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!"

- "Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!"

Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,

- "Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!"

Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà. Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,

- "Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?" một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.

- "Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng..."

Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,

- "Chứ hai anh kia làm chi rứa?"

- "Anh Cả và anh Hai của tôi đó!" Hải nhanh miệng.

- "Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt." Bà cụ phân trần. Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,

- "Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!"

Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,

- "Thiếu Tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi."

- "Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!" bà cụ ân cần.

- "Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào." Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.

- "Thưa Mẹ! Con đi!"

- "Thưa Mẹ! Con đi!"

- "Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!"

Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.

Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi,

- "Thái Sơn ơi! Trâm ơi!"

Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu Úy Trần Văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố.

Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tài, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?)

Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.

Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt-Nam Cộng-Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...

Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn Gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng Đoàn Phòng Vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy.

Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...

Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung Úy Trần Văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất.

Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu "Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh". Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi,

- "Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!"

Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.

Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu Úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.

Thời gian trôi...
Mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca "Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh". Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời,

- "Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!"

- "Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!" anh Bắc-Kỳ mừng rỡ.

Bà chủ nhà nghệch mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.

Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không?

Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến Quốc Lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số "82" màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói. Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,

- "Các chú tha lỗi cho anh..."

Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột,

- "Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!..."

Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...

(Hồi ký của Vương Mộng Long - k20)

28/04/2009