Cờ bay trên cổ thành Quảng Trị
Published on January 24, 2014
Mưu đồ chính trị của Bắc Việt là nhất quyết chiếm
giữ thị xã Quảng Trị làm thủ đô cho chính phủ bù nhìn Giải phóng Miền
Nam để mạnh tiếng nói trong Hội đàm Ba Lê đang tiếp diễn. Về phía chính
phủ Việt Nam Cộng hòa ra lệnh Quân đoàn 1 phải chiếm lại bằng mọi giá,
nên trận đánh từ bản chất đã nói lên sự gay cấn, ác liệt ngay từ giây
phút đầu.
I. Sơ lược bối cảnh dẫn đến trận Quảng Trị
Phía Hoa Kỳ :
Chiến thuật lùng diệt địch áp dụng tại cuộc chiến Việt
Nam rất hiệu quả, lối đánh chủ động này là tìm kiếm địch bất cứ ở đâu,
từ đồng bằng đến cao nguyên, ngay cả mật khu Việt cộng nằm giữa rừng rậm
cũng xông vào. Những đoàn trực thăng đổ quân ngay trên đầu địch để giao
chiến, các đơn vị chính quy Cộng sản Bắc Việt bị săn đuổi thiệt hại
nặng nề, chạy tan tác. Không còn chỗ nào an toàn, bổ sung dưỡng quân nữa
phải dạt sang lãnh thổ Cam Bốt và Lào để sinh tồn.
Lẽ dĩ nhiên suốt ngày tìm địch mà đánh thì thương vong
phải nhiều, người viết nhớ có tuần cao nhất là hơn 300 lính Mỹ hy sinh
làm rúng động quần chúng. Sự chịu đựng của dân chúng Hoa Kỳ thường
thường giới hạn, thêm vào sự thiên tả của giới truyền thông báo chí đã
phóng đi những hình ảnh mô tả tin tức chiến sự một chiều, gây ảnh hưởng
xấu về cuộc chiến bảo vệ tự do tại miền Nam Việt Nam.
Phong trào phản chiến cũng phát động rầm rộ tại các
trường đại học, sinh viên tuần tự biểu tình chống chiến tranh Việt Nam
khắp Hoa Kỳ. Bắt mạch rõ tâm lý quần chúng, nhất là nhu cầu tranh cử hứa
cố gắng chấm dứt chiến tranh, khi tái đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ Richard
Nixon một mặt cố gắng bắt tay Trung Cộng, một mặt ra lệnh rút dần các
đơn vị tham chiến Mỹ, Đồng minh khỏi Việt Nam, chỉ để lại sĩ quan cố vấn
các đại đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa, một phái bộ yểm trợ tiếp vận
tại Saigon đồng thời tuyên bố Việt Nam hóa chiến tranh.
Miền Nam Việt Nam :
Miền Nam phồn thịnh giả tạo nhờ hơn nửa triệu quân Mỹ,
Đồng minh trú đóng, nên khi đoàn quân này rút đi, những khó khăn về
kinh tế bắt đầu. Các phong trào đối lập chính trị với chính phủ nền Đệ
nhị Cộng hòa quấy phá mạnh mẽ gây nhiều xáo trộn xã hội. Một số quần
chúng chỉ lo làm giàu nhờ chiến tranh, còn đa số không thấu triệt lắm về
Cộng sản, đã thờ ơ với cuộc chiến đấu tự vệ sống còn này, gần như giao
khoán trên vai những người lính của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Miền Bắc Việt Nam :
Như trên đã trình bày, các đơn vị chính quy Cộng sản
Bắc Việt bị săn đuổi thường xuyên, mất địa bàn hoạt động. Tiếp đến trận
Tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968 hy vọng dân chúng miền Nam nổi dậy
theo, đã hoàn toàn thất bại. Tại miền Nam mọi hạ tầng cơ sở, những đơn
vị du kích địa phương hậu cần, mật khu gần như bị tiêu diệt hoặc phá vỡ
tan hoang, không thể hướng dẫn, yểm trợ tiếp vận những đơn vị từ Bắc vào
được nữa. Cũng suốt thời gian này quân Việt Nam Cộng hòa và Đồng minh
tiếp tục săn đuổi truy lùng tiêu diệt, vượt sang cả lãnh thổ Cam Bốt và
Hạ Lào. Vì vậy chiến trường miền Nam yên lặng trống vắng suốt từ 1968
đến 1971.
Về nội tình miền Bắc sức chịu đựng của dân chúng gần
như kiệt lực. Kinh tế suy thoái trầm trọng, các cơ sở kinh tế hạ tầng
vừa nhen nhúm đã bị không quân Mỹ oanh tạc tàn phá. Bắc Việt cảm thấy
không thể thắng được, nhất là không thể nào xây dựng lại cơ sở hạ tầng
để tiếp tục cuộc chiến nửa du kích nửa chính quy mà người Cộng sản gọi
là “cuộc chiến có mức độ” trong miền Nam được nữa. Có nhiều mâu thuẫn
trong hàng lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt, nhưng rồi họ quyết định phải giải
quyết cuộc xâm chiếm miền Nam dù thắng hay bại bằng chính quy chiến
liên hợp với thủ thuật chính trị, dốc toàn lực vào trận chiến cuối cùng.
Dựa vào những yếu tố chính trị, quân sự thuận lợi cho
họ như Mỹ bắt tay Trung Cộng, miền Nam Việt Nam không còn là nút chặn
Cộng sản về phía Nam nữa, quần chúng Mỹ bị giới truyền thông báo chí
thiên tả hướng dẫn sai lạc về cuộc chiến Việt Nam, thấy rõ ý đồ của Mỹ
chỉ muốn rút chân khỏi vũng lầy Việt Nam và sẽ không trở lại bất cứ tình
huống nào. Trong hơn 3 năm chuẩn bị như mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh
làm đường tiếp vận chính, có khả năng chịu đựng được sự vận chuyển của
chiến xa hạng nặng Nga, pháo cùng cơ giới, dụng cụ chiến tranh khác do
Nga Sô mới viện trợ, hoàn tất hệ thống ống dẫn dầu, xăng vào chiến
trường vùng I, II của Việt Nam Cộng hòa. Chuẩn bị, bí mật chuyển quân đã
xong.
Thực hiện mưu đồ :
Như những bài trước đã viết, vào ngày 30/3/1972 hồi 12 giờ trưa Cộng sản Bắc Việt khai diễn chiến dịch Nguyễn Huệ, tung hàng chục sư đoàn, hàng ngàn chiến xa, đại pháo, hỏa tiễn ồ ạt tấn công vào lãnh thổ vùng I, II, III miền Nam. Ý đồ muốn chiếm một tỉnh nào đó để có đất có dân hầu đặt chính phủ do họ nặn ra (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) như Ban Mê Thuột, Bình Long hay Quảng Trị.
Như những bài trước đã viết, vào ngày 30/3/1972 hồi 12 giờ trưa Cộng sản Bắc Việt khai diễn chiến dịch Nguyễn Huệ, tung hàng chục sư đoàn, hàng ngàn chiến xa, đại pháo, hỏa tiễn ồ ạt tấn công vào lãnh thổ vùng I, II, III miền Nam. Ý đồ muốn chiếm một tỉnh nào đó để có đất có dân hầu đặt chính phủ do họ nặn ra (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) như Ban Mê Thuột, Bình Long hay Quảng Trị.
Mở màn được ít tuần, cả 3 mũi tiến chiếm đều bị chặn,
phản công kịch liệt của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thấy khó đạt ý định
chiếm Ban Mê Thuột hay Bình Long là tỉnh ở gần Saigon thủ đô miền Nam có
nhiều lợi điểm chính trị, gây tiếng vang quốc tế nhiều hơn. Ban chính
trị Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam quyết định đổi diện thành điểm,
nhắm vào tỉnh Quảng Trị gần hậu phương Bắc Việt, tiện bề tăng viện, yểm
trợ đồng thời tung thêm 2 sư đoàn trừ bị cuối cùng vào trận Quảng Trị.
Khi khởi đầu tại vùng hỏa tuyến, Bắc Việt xua 5 sư đoàn tác chiến, 2
trung đoàn pháo, 1 trung đoàn phòng không cùng các đơn vị thuộc mặt trận
B5 (Quảng Trị – Thừa Thiên) gồm : 2 trung đoàn tác chiến, 1 trung đoàn
pháo, 1 trung đoàn tên lửa (hỏa tiễn), 1 trung đoàn đặc công, như vậy là
hơn 1 sư đoàn nữa. Họ dùng chiến thuật bộ binh hợp đồng chiến xa, chia
nhiều mũi nhỏ, tiền pháo hậu xung các cứ điểm hay hỏa lực của ta suốt
dọc phía Nam vĩ tuyến 17 từ bờ biển lên đến biên giới Lào.
Bất ngờ bị một lực lượng đông hơn 4, 5 lần tấn công
nên Sư đoàn 3 Bộ binh cùng một số lực lượng Tổng trừ bị cầm cự lui dần
tuần tự bỏ thị trấn Đông Hà, căn cứ Ái Tử bản doanh của Sư đoàn 3 Bộ
binh, qua sông Thạch Hãn, thị xã Quảng Trị, về hẳn phía Nam sông Mỹ
Chánh. Tại con sông này, đà tấn công ồ ạt, hung hãn của quân Cộng sản
Bắc Việt đã bị Lữ đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến chận đứng vào ngày
3/5/1972. Đây là đường ranh Nam Bắc phân tranh tạm thời cho đến khi Quân
lực Việt Nam Cộng hòa đứng lên tiến vào tái chiếm thị xã Quảng Trị vào
ngày 16/9/1972.
II. Công cuộc tái chiếm
Vào khoảng 1 giờ trưa ngày 5/5/72 Trung tướng Ngô Quang Trưởng cùng Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Đại tá Lê Văn Thân (sau thăng cấp Chuẩn tướng), Đại tá Phạm Văn Phô trưởng phòng 2 Quân đoàn, đáp trực thăng bất ngờ thăm viếng Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 tại quận lỵ Phong Điền tỉnh Thừa Thiên. Sự thăm viếng này gây ngạc nhiên cho chúng tôi vì hiện ông đang là Tư lệnh Quân đoàn 4. Vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ Trung tướng Trưởng chậm rãi nói :
Vào khoảng 1 giờ trưa ngày 5/5/72 Trung tướng Ngô Quang Trưởng cùng Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Đại tá Lê Văn Thân (sau thăng cấp Chuẩn tướng), Đại tá Phạm Văn Phô trưởng phòng 2 Quân đoàn, đáp trực thăng bất ngờ thăm viếng Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 tại quận lỵ Phong Điền tỉnh Thừa Thiên. Sự thăm viếng này gây ngạc nhiên cho chúng tôi vì hiện ông đang là Tư lệnh Quân đoàn 4. Vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ Trung tướng Trưởng chậm rãi nói :
- Tôi vừa được Tổng thống chỉ định thay thế Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Chung cho tôi rõ tình hình bây giờ ra sao ?
Sau khi nghe trình bày sơ qua tình hình bạn, địch
xong, trên đường trở lại bãi đáp, Trung tướng Trưởng vẫy tay để đoàn tùy
tùng đi trước, riêng ông đứng lại để có dịp nói riêng với tôi. Ông
không dùng uy phong của một vị Tư lệnh Quân đoàn để hỏi một Đại tá Lữ
đoàn trưởng dưới quyền, tôi cảm thấy từ lời nói, ánh mắt như biểu lộ
tình huynh đệ chân thành, tình chiến hữu giữa trận mạc cùng nhau chia xẻ
nhiệm vụ nặng nề, ông nói :
- Chung đừng ngần ngại gì hết, cứ nói thật. “Ông nhấn
mạnh chữ nói thật” cho tôi biết, liệu mình có giữ được không ? “ý ông
muốn hỏi còn có thể chịu đựng được những đợt tấn công sắp tới không ?”.
Tôi trả lời :
- Mình giữ được, Trung tướng.
- Mình giữ được, Trung tướng.
Nghe tôi trả lời chắc nịch, dứt khoát như vậy, mắt ông bừng lên ánh lửa quyết tâm. Ông trầm ngâm một chút rồi hỏi thêm :
- Chung có yêu cầu gì ở tôi không?
- Chung có yêu cầu gì ở tôi không?
- Xin Trung tướng chú trọng đặc biệt tới Bộ Tham Mưu Quân Đoàn hơi kém và lực lượng Địa Phương Quân Thừa Thiên cứ muốn rút đi.
- Tôi hứa với Chung sẽ chấn chỉnh Bộ Tham Mưu Quân
đoàn đồng thời chỉ thị cho Đại tá Tôn Thất Khiên, Tỉnh trưởng kiêm Tiểu
khu trưởng ngay về các đơn vị Địa Phương Quân.
Về phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ngoài sự thay đổi
Tư lệnh Quân đoàn 1, tuần tự kế tiếp trong tháng 5/72 Đại tá Bùi Thế
Lân, Tư lệnh phó lên thay Trung tướng Lê Nguyên Khang Tư lệnh Sư đoàn
Thủy Quân Lục Chiến, Tướng Khang về Phụ tá Hành quân Tổng Tham Mưu
trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Đại tá Lân sau đó thăng cấp Chuẩn
tướng. Đại tá Lê Quang Lưỡng thăng cấp Chuẩn tướng thay Trung tướng Dư
Quốc Đống, Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, tháng sau đó. Về nội bộ Sư đoàn Thủy
Quân Lục Chiến: Đại tá Nguyễn Thành Trí thay Đại tá Lân làm Tư lệnh phó
Sư đoàn, Trung tá Nguyễn Thế Lương sau thăng cấp Đại tá được chỉ định
Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 369 thay Đại tá Phạm Văn Chung giữ nhiệm vụ Tham
mưu trưởng Hành quân Sư đoàn. Tướng Ngô Quang Trưởng là vị Tướng trận
mạc, ông có thói quen sau khi nhận nhiệm sở mới thường bay một vòng quan
sát, tự tai nghe các sĩ quan Chỉ huy mặt trận trình bày để phối kiểm
các điều sĩ quan trong Bộ tham mưu cung cấp cho ông. Ông nhận thấy 3
điểm chiến lược quân sự, chính trị cần phải làm ngay:
1. Tái bổ sung, trang bị các đơn vị bị tổn thất vừa
qua, tái phối trí lực lượng còn lại ngay để có thể ngăn chận âm mưu địch
tiến chiếm thị xã Huế từ hướng Bắc (vượt tuyến Mỹ Chánh), hoặc phía Tây
(từ thung lũng Ashau – Alưới).
2. Tái chiếm lại những phần đất vừa lọt vào tay quân Cộng sản Bắc Việt.
3. Vãn hồi trật tự xã hội, gây lòng tin cho quân dân
cán chính vùng địa đầu giới tuyến. Những năm trước đó Tướng Trưởng đã
giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh nên ông rành rẽ nhân văn địa thế toàn
vùng. Đây là lợi điểm để ông dễ dàng khôi phục lại lòng tin của mọi
người. Song song việc thi hành điểm chiến lược 1, ông nghĩ ngay đến việc
tái chiếm thị xã Quảng Trị (người viết đoán vì tình hình chính trị hồi
đó, Tổng thống Thiệu đã phần nào thôi thúc ông). Ông chỉ định Đại tá Lê
Văn Thân (là một sĩ quan Pháo binh giỏi, đi cùng ông từ vùng 4 chiến
thuật ra) làm Trưởng ban thiết kế kế hoạch tái chiếm Quảng Trị gồm:
- Quân đoàn 1: Đại tá Phạm V. Nghìn Trưởng phòng 3, Đại tá Phạm V. Phô Trưởng phòng 2.
- Sư đoàn Dù: Đại tá Lê Văn Ngọc, Đại tá Lê Văn Phát
- Sư đoàn TQLC: Đại tá Phạm Văn Chung, Trung tá Đỗ Kỳ (sau thăng cấp Đại tá).
Để bảo mật tuyệt đối, ông cho lập một phòng riêng biệt
(không liên hệ gì với các sĩ quan tham mưu khác của Bộ tư lệnh Quân
đoàn 1) dành cho ban thiết kế soạn thảo kế hoạch.Sau khi chiếm tỉnh, thị
xã Quảng Trị quân Cộng sản Bắc Việt phòng thủ kiên cố chiều sâu dày
đặc, nguyên thị xã, cổ thành Đinh Công Tráng do một Sư đoàn tăng cường
chiến xa, 1 Trung đoàn đặc công và bao bọc bởi hỏa lực pháo, hỏa tiễn
khủng khiếp. Xung quanh về phía Nam giáp tuyến Mỹ Chánh, phía Tây nhà
thờ La Vang, phía Đông biển, phía Bắc sông Thạch Hãn với 4 Sư đoàn khác
chia nhau trấn giữ, giai đoạn này chúng thêm 2 Sư đoàn trừ bị cuối cùng
32O và 325 đã vào đến phía Nam sông Bến Hải.
Mưu đồ chính trị của Bắc Việt là nhất quyết chiếm giữ
thị xã Quảng Trị làm thủ đô cho chính phủ bù nhìn Giải phóng Miền Nam để
mạnh tiếng nói trong Hội đàm Ba Lê đang tiếp diễn. Về phía chính phủ
Việt Nam Cộng hòa ra lệnh Quân đoàn 1 phải chiếm lại bằng mọi giá, nên
trận đánh từ bản chất đã nói lên sự gay cấn, ác liệt ngay từ giây phút
đầu. Trong khi đang thiết kế cùng tập trung lực lượng tái chiếm như Sư
đoàn Dù tăng phái Quân đoàn 1 ngày 22/5, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến
tuyến phòng thủ phía Bắc (sông Mỹ Chánh), Sư đoàn 1 Bộ binh trấn phía
Tây thị xã Huế. Tất cả đều tung các cuộc tấn công hạn chế thăm dò để giữ
thế chủ động trong phòng thủ…
Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến :
- Ngày 12/5 cuộc hành quân Sóng Thần 5/72 của Lữ đoàn
369 có 2 tiểu đoàn trực thăng vận vào quận Hải Lăng, 1 Tiểu đoàn vượt
sông Mỹ Chánh bắt tay với 2 Tiểu đoàn trên. Đụng độ với Trung đoàn 66
của Sư đoàn 304 Bắc Việt.
- Ngày 24/5 hành quân Sóng Thần 6/72 của Lữ đoàn 147
đã tung 2 Tiểu đoàn trực thăng vận vào Đông Bắc quận Hải Lăng, 1 Tiểu
đoàn đổ bộ từ tàu vào bãi biển Mỹ Thủy. Đụng độ với Trung đoàn 18 của Sư
đoàn 325 Bắc Việt.
Sư đoàn 1 Bộ binh :
- Ngày 15/5 tung 2 Trung đoàn mở rộng vòng đai về phía
Tây, chiếm căn cứ hỏa lực Bastogne và Checkmate. Đụng độ với các Trung
đoàn thuộc Sư đoàn 324 B của Bắc Việt.
Phía Cộng sản Bắc Việt :
- Ngày 21/5 bộ binh cùng chiến xa địch tấn công vào khu vực phòng thủ của Lữ đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, thọc sâu vào tuyến phòng thủ của ta nhưng bị đẩy lui.
- Ngày 21/5 bộ binh cùng chiến xa địch tấn công vào khu vực phòng thủ của Lữ đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, thọc sâu vào tuyến phòng thủ của ta nhưng bị đẩy lui.
- Ngày 22/5 khoảng 3 giờ sáng địch tung 2O chiến xa và
bộ binh tấn công 2 đợt vào 1 Tiểu đoàn cùng Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 Thủy
Quân Lục Chiến, bị đẩy lui trước khi trời sáng rõ.
- Ngày 25/5 địch chuyển hướng tấn công sang Lữ đoàn
258 Thủy Quân Lục Chiến phía Tây, dàn trận giữa ban ngày, bị đẩy lui,
thiệt hại nặng vì phi pháo của ta.
- Ngày 26/5 địch tấn công mạnh mẽ vào khu vực Liên
đoàn 1 Biệt Động Quân, lọt vào gần sát các cơ sở chỉ huy, nhưng Biệt
Động Quân đã dũng mãnh phản công đẩy lui.
Sang tháng 6/72 để chuẩn bị cho công cuộc tái chiếm thị xã Quảng Trị, Thủy Quân Lục Chiến tấn công (Sóng Thần 8/72) đồng loạt tung 4 Tiểu đoàn vượt sông Mỹ Chánh, được không quân, pháo binh yểm trợ, địch kháng cự mạnh mẽ, nhưng lực lượng Thủy Quân Lục Chiến tiếp tục tiến, chiếm giữ phần đất vừa giành được. Các đơn vị Công binh theo sau lập ngay tuyến phòng thủ sâu lên phía Bắc. Ngày 18/6 tiếp luôn cuộc hành quân Sóng Thần 8A/72, nhiều Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến song song tiến chiếm, giành từng trăm thước đất một, đẩy lui địch khoảng 4 cây số về phía Bắc tuyến Mỹ Chánh và chấm dứt ngày 27/6.
Quân đoàn 1 với lệnh hành quân Lam Sơn 72, chính thức
mở màn cuộc tái chiếm thị xã Quảng Trị. Lực lượng Việt Nam Cộng Hòa gồm:
Sư đoàn Dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến, 3 Liên đoàn Biệt Động Quân, Lữ
đoàn 1 Kỵ binh Thiết giáp, Pháo binh cùng các đơn vị yểm trợ khác cơ
hữu Quân đoàn 1, Không quân, Hải quân vùng 1 chiến thuật. Về tương quan
lực lượng thì quân Cộng Sản Bắc Việt trội hơn ta về bộ binh, thiết giáp,
pháo binh 4 trên 1. Riêng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ưu thế về không
quân và hải quân (xem bản tương quan lực lượng). Quan niệm hành quân :
ngày 28/6 hồi 7 giờ sáng, lực lượng Việt Nam Cộng Hòa vượt tuyến xuất
phát (Mỹ Chánh) tiến về hướng Bắc (Quảng Trị). Sư đoàn Dù tăng phái
thiết đoàn xa, các Liên đoàn Biệt Động Quân tiến theo trục quốc lộ 1,
trách nhiệm kéo dài về phía Tây. Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến tăng phái
chiến xa, các lực lượng tăng phái khác trách nhiệm phía Đông quốc lộ 1
đến sát bờ biển. Ngoài biển có hải quân tuần phòng kiểm soát, xa hơn nữa
có vài chiến hạm của Đệ thất hạm đội Mỹ, nếu cần lực lượng tái chiếm có
thể xin hải pháo yểm trợ, không quân yểm trợ hỏa lực theo nhu cầu trận
địa.
Khoảng đường từ Mỹ Chánh đến thị xã Quảng Trị chừng 15
cây số, đoạn này lực lượng tái chiếm coi như 15 cây số máu. Quân Cộng
sản Bắc Việt đặt các chốt hầm hố kiên cố, mìn bẫy, yểm trợ bởi hỏa lực
pháo binh, hỏa tiễn hiện đại. Lực lượng Dù và Thủy Quân Lục Chiến phải
phá chốt từng vài trăm thước một để tiến lần sát mục tiêu Quảng Trị.
Sau khoảng 30 ngày chiến đấu trong hoàn cảnh bất lợi về mọi mặt, Dù và Thủy Quân Lục Chiến song tiến vượt qua đường máu, bám sát thị xã Quảng Trị như đã nói trên được phòng thủ bởi 1 Sư đoàn với chiến xa, riêng Cổ Thành 1 Trung đoàn thêm các đơn vị đặc công. Phía Thủy Quân Lục Chiến, Tướng Bùi Thế Lân tính toán chấp nhận rủi may, thả những đợt trực thăng vận quân vào sau lưng địch như: ngày 11/7 đổ Tiểu đoàn 1 vào vùng 2 cây số phía Bắc thị xã, hương lộ 56O cắt trục tiếp vận của địch vào trận địa. Ngày 24/7 thả Tiểu đoàn 5 vào vùng 1O cây số Đông Bắc Quảng Trị, mục đích gây nao núng tinh thần, xáo trộn sau lưng địch để mũi tấn công chính đẩy địch ra khỏi hệ thống phòng thủ kiên cố, thu ngắn thời gian cùng bớt tổn hao xương máu quân sĩ. Bình thường ra mục tiêu nằm trên trục tiến quân của đơn vị nào thì đơn vị đó đánh chiếm.
Quận lỵ Hải Lăng, thị xã Quảng Trị nằm trên đường tiến
quân của Thủy Quân Lục Chiến nhưng Tướng Trưởng lại giao cho Dù đánh
chiếm 2 mục tiêu trên. Lý do dự đoán Tướng Trưởng nguyên gốc Dù, có lẽ
ông muốn dành vinh dự cho Sư đoàn Dù, việc này làm Tướng Lân của Thủy
Quân Lục Chiến buồn lòng không ít .
Sát vòng đai thị xã, các chốt phòng thủ địch càng dầy
đặc hơn, lực lượng tái chiếm phải tiêu diệt địch từng trăm thước, tiến
lên , lùi xuống dằng co nhiều ngày, lúc tung lựu đạn, khi cận chiến lưỡi
lê… Tấn công lúc xẩm tối, khi mờ sáng giành nhau từng thước đất, từng
căn phố ! Từ xa nhìn về Quảng Trị chỉ thấy một trời khói đất mịt mù,
tiếng bom đạn, tiếng súng lớn súng nhỏ đôi bên không còn phân biệt, chỉ
nghe ầm ì như sấm động rền rĩ cả bầu trời. Người ta có cảm tưởng như
thành phố Quảng Trị đang rung lên vì một cơn địa chấn nặng, tàn phá hãi
hùng. Khai thác nhật ký trên tử thi binh sĩ Bắc Việt ghi lại cảnh bom
đạn trút xuống đầu họ như sau: “Mẹ ơi, con chắc không thể nào sống sót
để nhìn thấy mẹ nữa, bạn chung quanh con chết dần hàng ngày rồi, con
đang cuốn mình trong căn hầm này cả tháng rồi không ra khỏi. Pháo, giời
ơi pháo suốt ngày đêm, đầu con lung bung, ăn không được, ngủ không được,
đầu con như muốn vỡ tung ra, máu tai đã bắt đầu chảy rồi, như các bạn
con đứa nào chết cũng đầy máu tai máu mũi. Pháo, giời ơi lại pháo, con
điên mất không thể nào chịu đựng được nữa, chắc không thể nào con về Bắc
với mẹ nữa”.
Đấy là hậu quả của 2, 3 đợt “Hỏa Lôi”, xin nói rõ mỗi
đợt lâu 24 hay 48 tiếng đồng hồ, mọi hỏa lực yểm trợ như: không quân,
hải pháo, pháo binh tập trung hàng trăm khẩu thay phiên nhau trút bom,
tác xạ ngày đêm không ngừng theo thời gian ấn định vào mục tiêu (Time on
target). Thật là địa ngục trần gian ! Thủy Quân Lục Chiến đã chiếm xong
phía Đông và Đông Bắc mục tiêu Quảng Trị, để Dù tấn chiếm thị xã cùng
cổ thành. Đơn vị tuyến đầu của Dù vẫn chưa tiến sát được tới Cổ Thành,
một vài lần cố gắng cắm cờ vào tường Cổ Thành. Lực lượng Dù đã bị tổn
thất nhiều qua các trận đánh ác liệt tại Cao nguyên, Bình Long – An Lộc,
tiếp theo sự thiệt hại khá cao trong trận tái chiếm này nên sự dũng
mãnh có phần nào sa sút.
Theo sự hiểu biết giới hạn của người viết, Tổng thống
Thiệu sốt ruột có ý thúc Tướng Trưởng ráng chiếm lại Quảng Trị nhanh hơn
vì nhu cầu chính trị quốc tế lúc bấy giờ, nên Tướng Trưởng chỉ định
Thủy Quân Lục Chiến thay Dù đánh chiếm thị xã và Cổ Thành Quảng Trị vào
ngày 27/7/72.
Nhận được lệnh, Tướng Lân trầm ngâm suy nghĩ, nét mặt ông hằn lên, người viết nhận thấy hình như nội tâm ông đang giằng co mãnh liệt, vì danh dự binh chủng, quân đội và ngay cả tương lai võ nghiệp. Ông cùng các sĩ quan tham mưu thiết kế kỹ lưỡng và chọn chiến thuật xa luân chiến. Nghĩa là dùng Lữ đoàn 258 Lữ đoàn trưởng là Đại tá Ngô Văn Định trách nhiệm phía Tây, Lữ đoàn 147 Lữ đoàn trưởng Đại tá Nguyễn Năng Bảo phía Đông thị xã, Lữ đoàn 369 Lữ đoàn trưởng Đại tá Nguyễn Thế Lương trừ bị, còn các Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến từ 1 đến 9 thay phiên nhau trực thuộc Lữ đoàn lên tuyến đầu chiến đấu, rồi lui về sau bổ sung nghỉ ngơi.
Nhận được lệnh, Tướng Lân trầm ngâm suy nghĩ, nét mặt ông hằn lên, người viết nhận thấy hình như nội tâm ông đang giằng co mãnh liệt, vì danh dự binh chủng, quân đội và ngay cả tương lai võ nghiệp. Ông cùng các sĩ quan tham mưu thiết kế kỹ lưỡng và chọn chiến thuật xa luân chiến. Nghĩa là dùng Lữ đoàn 258 Lữ đoàn trưởng là Đại tá Ngô Văn Định trách nhiệm phía Tây, Lữ đoàn 147 Lữ đoàn trưởng Đại tá Nguyễn Năng Bảo phía Đông thị xã, Lữ đoàn 369 Lữ đoàn trưởng Đại tá Nguyễn Thế Lương trừ bị, còn các Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến từ 1 đến 9 thay phiên nhau trực thuộc Lữ đoàn lên tuyến đầu chiến đấu, rồi lui về sau bổ sung nghỉ ngơi.
Nhờ vậy các Tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến đều được bổ
sung đều đặn, khả năng chiến đấu không quá suy giảm vì tổn thất. Suốt
thời gian đánh chiếm lại thị xã Quảng Trị, Tướng Lân cứ 6 giờ sáng bay
từ Bộ tư lệnh Sư đoàn tại quận lỵ Hương Điền lên sát trận địa, ngồi ngay
cạnh các Lữ đoàn trưởng trực tiếp điều khiển trận đánh. Ông rất chi
tiết, kỹ lưỡng từng điểm nhỏ, cũng không lạ lắm vì ông nổi tiếng là một
sĩ quan tham mưu giỏi trước khi nhận nhiệm vụ Tư lệnh Sư đoàn, nhờ vậy
Thủy Quân Lục Chiến tránh được nhiều tổn thất vô ích.
Trận Quảng Trị được mô tả là khủng khiếp, ác liệt, đẫm
máu không thua gì các trận đánh đẫm máu khác trên thế giới. Xin hãy
nghe một sĩ quan Trung đội trưởng nói : “Muốn bị thương dễ lắm, chỉ cần giơ tay lên khỏi miệng hố cá nhân hoặc thò tay ra khỏi cửa hầm thì dính đạn liền !“.
Khoảng 50 ngày trong khung vuông mỗi chiều chừng 15 cây số, hàng chục
Sư đoàn của hai phía quần thảo nhau dưới màn hỏa lực yểm trợ hiện đại
khủng khiếp đôi bên. Dưới mắt các nhà quân sự thì trận chiến đã tự diễn
tả cái nồng độ tàn khốc, đẫm máu của nó, nói gì, viết gì thêm cũng không
thể hiện đầy đủ.
Riêng phía Thủy Quân Lục Chiến có nhiều bài viết về
trận đánh lịch sử này, nhưng mỗi tác giả nhìn một góc cạnh khác nhau,
như Trung tá Tiểu đoàn trưởng Thủy Quân Lục Chiến Trần Văn Hiển với bài
viết Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam và trận chiến xuân 1972 tại vùng I chiến thuật, như một Thủy Quân Lục Chiến với bài Tiến về Quảng Trị, như Trung úy Thủy Quân Lục Chiến Văn Tấn Thạch bút hiệu Sói Biển Thạch Thảo với Tái chiếm cổ thành,
là cấp Trung đội trưởng, Đại đội trưởng chiến đấu ngay sát tuyến đầu,
vậy xin độc giả tìm hiểu thêm các bài này để có cái nhìn toàn bộ trận
đánh, từ một vài yếu tố chính trị, tham mưu thiết kế đến lực lượng chiến
đấu tuyến đầu.
Thường ra thì lực lượng tấn công bao giờ cũng phải
trội hơn từ 3 đến 5 lần lực lượng phòng thủ, thế mà trong trận Quảng Trị
địch phòng thủ lại trội hơn ta tấn công đến 4 lần. Thật là phép lạ hay
vì yếu tố danh dự, tâm lý nào mà Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tạo nên
chiến thắng vẻ vang đó. Suốt thời gian tiếp diễn, biết bao nhiêu con mắt
từ mọi phía đều theo dõi, nhìn vào, cảm tình phe này, ác cảm phe kia
hay ngược lại. Nhưng kết quả cuối cùng đã chứng minh cái danh và giá trị
để đời của nó.
Sau trận đánh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được kính nể,
coi như một đội quân thiện chiến trên thế giới. Ngày 15/9/72 hồi 12 giờ
45 trưa Thủy Quân Lục Chiến chiếm xong cổ thành, mục tiêu cuối cùng
trong trận Quảng Trị, cắm 2 lá cờ vàng ba sọc đỏ nhỏ do toán tiến chiếm
tiền phong của hai Lữ đoàn 258, 147 mang theo với cán cờ nối buộc sơ sài
trên hai cổng cổ thành. Quảng Trị tan hoang, đổ nát thành đống gạch
vụn, vụn đến hai lần, không một tấc đất nào không bị bom đạn cày xới,
không một vật nào trên mặt đất mà không bị đạn, miểng đạn cắt xẻ. Và
ngày 16/9/72 một lễ thượng kỳ tương đối long trọng hơn với đầy nước mắt
của binh lính Thủy Quân Lục Chiến. Quảng Trị thực sự được tái chiếm.
III. Tiếng vang trận đánh
Cho đến hơn 20 năm sau, trong một quân trường Hoa Kỳ,
nhân sau bài giảng về quân sự thế giới, vị tướng thuyết trình viên đã
hỏi khoảng 200 sĩ quan sinh viên (khóa sĩ quan tu nghiệp) rằng :
- Trên thế giới, quân đội nào chiến đấu giỏi ?
Người nói quân đội Mỹ, kẻ nói Anh, Pháp, Do Thái… Ông Tướng thủng thẳng vừa mỉm cười vừa nói :
- Lực lượng Tổng trừ bị Thủy Quân Lục Chiến, Dù, Biệt
Động Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu giỏi. Một Sư đoàn của họ
có khả năng chiến đấu bằng 5 Sư đoàn khác, nhưng tiếc thay những lực
lượng này không còn nữa.
Và ông hỏi tiếp :
- Ở đây có sĩ quan nào gốc Việt Nam hãy đứng lên.
- Ở đây có sĩ quan nào gốc Việt Nam hãy đứng lên.
Một tiếng có vang lên gần cuối phòng, một thanh niên
Mỹ gốc Việt mặt xạm đen, đầy hãnh diện đứng lên. Hàng trăm con mắt đều
nhìn về phía Đại úy Nhảy Dù Mỹ gốc Việt dòng họ Lương. Vị Tướng tiếp:
- Tôi đoán không lầm thì thân sinh của Đại úy là cựu quân nhân xưa kia.
Đại úy Lương trả lời :
Đại úy Lương trả lời :
- Thưa Trung tướng vâng, cha tôi là một cựu Thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày xưa.
Tất cả mọi người trong hội trường đều kêu “ồ” và vị
Tướng cho phép Đại úy Lương ngồi xuống. Sau buổi học đó, các bạn đồng
khóa nhìn Đại úy Lương với con mắt nể phục hơn. Đại úy Lương tâm sự:
“Khi còn ở nhà, thấy bố tôi và các chiến hữu của ông nói về Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa cùng các trận đánh…, tôi có ý coi thường, vì các ông
già trên dưới 60 tuổi này, ốm o, nhăn nhúm, nói tiếng Mỹ ngập ngừng,
ngắt quãng, làm sao để lại ấn tượng hào hùng trong tâm trí tôi được.
Nhưng nay tôi thật tình cúi đầu tạ lỗi cùng bố tôi và các chiến hữu của
ông. Kể từ ngày đó, cái nhìn và suy nghĩ của tôi về bố mình khác xưa
nhiều lắm”.
Trận Quảng Trị cũng được một số trường quân sự cao cấp
của các quốc gia đồng minh lấy làm case điển hình để nghiên cứu, giảng
dạy.
IV. Hệ quả sau trận Quảng Trị
Điện tín, thư từ chúc mừng của các Tướng lãnh tên
tuổi, các quốc gia Đồng minh gửi đến ca ngợi chiến thắng hào hùng này.
Tổng thống, Thượng Hạ viện Việt Nam Cộng Hòa họp khẩn cấp thông báo cùng
toàn dân. Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ hãnh diện với thế giới về trận
Iwo-Jima thì Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đã làm cho thế giới nể phục
với chiến thắng Quảng Trị 16/9/72. Tiếng tăm đã vượt ra khỏi cuộc chiến
đấu tự vệ của miền Nam để đi vào tầm vóc quốc tế.
Những ngày sau đó, nhiều phái đoàn quân sự của các
quốc gia bạn đã đến tận nơi tìm hiểu. Đặc biệt Tướng Vanuxem của phái
đoàn Pháp sau khi nghe trình bày sự thương vong đôi bên (riêng Thủy Quân
Lục Chiến khoảng 35OO binh lính hy sinh, theo tỷ lệ cứ 1 hy sinh khoảng
3 bị thương), ông đứng bật dậy giơ tay chào và nói : “Tôi ngưỡng mộ tướng Lân cùng toàn thể binh lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam”.
Tướng Vanuxem được mệnh danh là “con hùm xám Bắc Việt” (trong chiến
tranh Pháp – Việt Minh trước 1954), đứng trước sự tan hoang, đổ nát của
cả một thành phố cùng sự thiệt hại đôi bên, ông Tướng già dày dạn chiến
trường này đã cảm thấy ngay cái mức độ tàn khốc, ác liệt, đẫm máu của
trận đánh nên mới tỏ lời như trên.
Người chiến binh Thủy Quân Lục Chiến đã chiến đấu dũng
cảm, đem thân xác mình ra chịu đựng thử thách giữa một hoàn cảnh thua
thiệt mọi bề để đạt mục tiêu to lớn của Quân đội và Quốc gia. Đài Saigon
đã phát thanh chương trình đặc biệt về chiến thắng này và bài hát “Cờ
bay trên cổ thành Quảng Trị” đã được hát lên từ những ngày tháng oai
hùng đó.
Ngoài Bắc, tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh quân đội
nhân dân Cộng sản Bắc Việt đã bật khóc khi hay tin Quảng Trị thất thủ
với hàng trăm ngàn quân sĩ thương vong, vũ khí và trang bị nặng bị tổn
thất hầu hết. Ông mất chức sau đó ít lâu.
V. Kết luận
Người viết xin có đôi lời với những người lính Thủy Quân Lục Chiến :
- Lịch sử là những biến cố nhân tạo hoặc thiên tạo, chiến thắng Quảng Trị là do công sức của mọi quân binh chủng, Thủy Quân Lục Chiến hy sinh thêm những giọt máu cuối cùng.
- Lịch sử là những biến cố nhân tạo hoặc thiên tạo, chiến thắng Quảng Trị là do công sức của mọi quân binh chủng, Thủy Quân Lục Chiến hy sinh thêm những giọt máu cuối cùng.
- Hai mươi bốn năm sau, có dịp nói chuyện với những
người lính Cộng sản Bắc Việt đã dự trận Quảng Trị, họ đều bày tỏ sự tàn
khốc, ác liệt, đẫm máu của trận đánh.
- Người đời sau nói đến Quảng Trị không thể nào không
nhắc đến binh đoàn Thủy Quân Lục Chiến với những người lính Mũ Xanh anh
dũng đã làm tròn nhiệm vụ được giao phó. Bắc Việt đã rút kinh nghiệm từ
thất bại đau đớn của cuộc đại tấn công mùa hè năm 1972, họ chuẩn bị thêm
3 năm nữa mới dám mở cuộc tấn chiếm 1975.
(Đại tá Phạm Văn Chung - Lữ trưởng Lữ đoàn 369 TQLC VNCH
Nguồn : http://tqlcvn.org/chiensu/cs-cobay-ctQT-72.htm & TTXVA
Ngoài Bắc, tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Cộng sản Bắc Việt đã bật khóc khi hay tin Quảng Trị thất thủ với hàng trăm ngàn quân sĩ thương vong, vũ khí và trang bị nặng bị tổn thất hầu hết. Ông mất chức sau đó ít lâu.
http://www.ttxva.net/wp-content/uploads/2014/01/President-Thieu-prays-in-the-destroyed-Church-of-La-Vang-Quang-Tri-Sep-20-1972-600x485.jpg
No comments:
Post a Comment